Bộ luật Lao động 2019 đã đặt ra trách nhiệm bồi thường đối với bên đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái luật như sau:
Đối với người sử dụng lao động:
Người sử dụng lao động khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái luật phải bồi thường tổn thất về vật chất lẫn tinh thần cho người lao động. Tùy vào từng trường hợp mà mức bồi thường sẽ là khác nhau.
Cụ thể, trường hợp 1: Nhận lại người lao động vào làm việc, người sử dụng lao động phải: Trả tiền lương, đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp trong những ngày người lao động không được làm việc;
Trả một khoản tiền tương ứng với tiền lương trong những ngày không báo trước (nếu vi phạm thời hạn báo trước);
Trả thêm cho người lao động một khoản tiền ít nhất bằng 02 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động.
Về cơ bản các khoản bồi thường này vẫn được áp dụng như Bộ luật Lao động năm 2012. Tuy nhiên, từ ngày 1.1.2021, khi đơn phương chấm dứt hợp đồng trái luật, người sử dụng lao động còn phải đóng bảo hiểm thất nghiệp trong những ngày người lao động không được làm việc.
Trường hợp 2: Người lao động không muốn làm việc, người sử dụng lao động phải trả các khoản tiền như ở trường hợp 1; Trợ cấp thôi việc cho người lao động.
Trường hợp 3: người sử dụng lao động không muốn nhận lại và người lao động đồng ý, thì phải trả các khoản tiền ở trường hợp 2;
Thỏa thuận về việc bồi thường thêm cho người lao động ít nhất bằng 2 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động.
Đối với người lao động: Khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái luật, người lao động phải bồi thường cho người sử dụng lao động những khoản tiền sau: Nửa tháng tiền lương theo hợp đồng lao động;
Khoản tiền tương ứng với tiền lương theo hợp đồng lao động trong những ngày không báo trước (nếu vi phạm thời hạn báo trước);
Chi phí đào tạo (trường hợp người lao động được đào tạo nghề từ kinh phí của người sử dụng lao động).
Ngoài những khoản bồi thường theo phân tích ở trên, mức bồi thường trong thực tế còn phụ thuộc vào những quy định cụ thể trong hợp đồng lao động và thỏa thuận của các bên.